6) Phẫu hình ảnh Thương hiệu
Mô hình này chỉ thích hợp cho những ai thực sự quan tâm nghiên cứu & ứng dụng quản trị thương hiệu chuyên sâu. Trong thực tế mô hình này chỉ hiện diện (một cách bí mật) bên trong những thương hiệu hàng đầu, thương hiệu tập đoàn và thương hiệu cao cấp (vd: Heineken).
Đối với một thương hiệu địa danh, chúng tôi cũng đã nghiên cứu mô hình Lục Giác của Simon Anholt xây dựng biến thể lượng hoá dựa trên mô hình Phẫu hình ảnh và thiết lập Phẫu thương hiệu cho thương hiệu địa danh như trong tình huống Thương hiệu Du lịch Sài Gòn Tp Hồ Chí Minh.
Đã có một sô học giả thừa nhận phương pháp có nhiều điểm tương đồng với khái niệm Bộ Mã Gien thương hiệu. Thực tế Phẫu hình ảnh mang lại những lợi ích rất sâu sắc trong việc nghiên cứu hình ảnh, quản trị thương hiệu và sáng tạo thương hiệu. Khả năng tối thiểu đối với phương pháp Phẫu hình ảnh đó là các nhà quản trị có thể xâu chuỗi giá trị hay tính thương hiệu với những thực tế sản phẩm để hiện thực hoá lời hưá thương hiệu thông qua trải nghiệm có định hướng.
Hình ảnh minh họa sau đây là ví dụ thực tế trong việc sáng tạo thông điệp thương hiệu petro 28 sử dụng phương pháp phẫu hình ảnh.
(7) Mô hình Brand Audit – Đánh giá Thương hiệu
Brand Audit có rất nhiều phương pháp với ứng dụng khác nhau từ đánh giá quản trị marketing, đánh giá hiệu quả thương hiệu và đi sâu hơn đó là đánh giá nhận diện thương hiệu. Mô hình do chuyên gia thương hiệu Võ Văn Quang thiết lập hướng vào đánh giá hiệu quả thương hiệu.
Một Thương hiệu mạnh phải mang lại hiệu quả kinh doanh đích thực, trong đó gồm hai hiệu quả, hiệu quả ngắn hạn lại mang lại doanh số trong vòng một năm tài chính, và hiệu quả trung hạn là giá trị thương hiệu có thể khai thác mở rộng kinh doanh, nhượng quyền hay phát triển gắn vào sản phẩm mới. Nói ngắn gọn là (a) hiệu quả lợi nhuận (ngắn hạn) và (b) hiệu quả uy tín (trung hạn).
Mô hinh Brand Audit ở đây tác giả day theo lý thuyết cơ sở của mô hình quản trị Kéo và Đẩy thiết lập các nhóm chỉ số đo thương hiệu thông thường đã được định nghĩa bởi các công ty nghiên cưu thị trường, đó là (1) Nhóm chỉ số nhận biết đại diện cho Lực Kéo, (2) Nhóm chỉ số Phân phối đại diện cho Lực Đẩy và (3) Nhóm chỉ số Mua hàng thể hiện kết quả chung.
Trong mô hình sau đây, nhóm các chỉ số 1,2,3 là các chỉ số Nhận biết đại diện cho Lực Kéo; các chỉ số 7,8,9 là các chỉ số Phân phối đại diện Lực Đẩy như đã giải thích trên đây. Ngoài ra Phẫu hình ảnh cũng được đo (lượng hoá) thông qua một bộ các Thành tố Thương hiệu (brand attributes) làm vững chắc hình ảnh thương hiệu và tăng độ tin cậy của nhóm chỉ số Lực Kéo.
(8) Mô hình Tư duy Marketing Khi trở thành một nhà quản trị marketing suy nghĩ của chúng ta cần được phân định làm 2 trạng thái, trạng thái (I) một người tiêu dùng và trạng thái (II) của một người marketing, tức người quan sát. Trong trạng thái thứ nhất bạn ứng xử và suy nghĩ một cách thật tự nhiên như mọi người, thậm chí là theo bản năng thông thường, điều này tốt trong khi bạn thâm nhập suy nghĩ của một đám đông người tiêu dùng giống như bạn (insights) để đánh giá sáng tạo hay một ý tưởng, một giải pháp marketing. Nhưng như vậy chưa đủ trong nhiều trường hợp khác, bạn phải sẵn sàng dẹp bỏ cái tôi, suy nghĩ và hình dung phản ứng của một nhóm khách hàng không hề giống bạn, đây chínhlà thách thức đối với một người làm marketing. Sai lầm lúc này dễ xảy ra, nó không liên quan đến trình độ của bạn mà liên quan bởi góc nhìn (perspective) hay não trạng của bạn.
Trong trạng thái (II) là một người marketing, bạn còn phải biết tách biệt làm hai trạng thái tư duy nữa, (1) một là trạng thái duy lý và tư duy hệ thống và (2) là trạng thái duy cảm và tư duy sáng tạo. Theo đó chuyên gia xin tạm đúc kết một mô hình tư duy marketing như sau:
Trạng thái (1) là tư duy hệ thống, thích hợp trong những cuộc họp quản trị, lập kế hoạch, suy nghĩ theo logic truyền thống; trạng thái (2) là tư duy sáng tạo, thích hợp cho những buổi làm việc sáng tạo (creative workshop) với não trạng theo Lateral Thinking (lý thuyết của Dr Edward de Bono với phương pháp 6 chiếc mũ tư duy).
(9) Mô hình Song hành Innovation
Marketing Innovation là một hệ thống tiên tiến kết hợp từ việc nghiên cứu xu hướng với sự thấu hiểu công nghệ tạo ra những ý tưởng đột phá sản phẩm và nâng cấp thương hiệu. Nếu như creative marketing nhắm đến việc đưa ra những ý tưởng sáng tạo thiên về lợi ích cảm tính và hình ảnh thương hiệu, và điều này tưởng chừng như là tất cả sự cần thiết trong việc xây dựng thương hiệu thì ở một mức độ cao hơn marketing innovation còn giúp sáng tạo ra ‘sản phẩm mới’ tạo ra những đột phá làm ngạc nhiên đối với khách hàng và thay đổi cục diện cạnh tranh. Một ví dụ trong xu hướng của văn hoá Á Đông thức tỉnh, thức uống trà xanh đóng chai là một sự đột phá tạo ra một khuynh hướng tiêu dùng đối lập với CSD (thức uống có ga) và hướng về giá trị thiên nhiên. Quá trình nghiên cứu này dẫn đắt bởi cả 2 động lực về thị trường và công nghệ.
Mô hình Song hành trải qua 7 bước và được thực hiện bởi một project team gồm 2 thành phần chính. Thành phần Công nghệ và thành phần Marketing. Đối tượng chính của quá trình innovation được phân tách làm 2 phần được gọi là Sản phẩm và Thương hiệu trải qua 7 bước để hoàn thiện thành một thực thể thống nhất đế Tung ra thị trường.
Quy trình Song hành này kế thừa một phần của phương pháp Innovation Funnel do Unilever phát triển.
(10) Mô hình Thương hiệu Chuỗi Sản phẩm Trong tất cả lý thuyết brand marketing của chuyên gia thì mô hình thương hiệu chuỗi sản phẩm hay còn được gọi là mô hình James Bond, luôn luôn được đề cập như là một lý thuyết cơ sở trong đó kế thừa lý thuyết ‘vòng đời sản phẩm’ nâng cấp thành một ‘chuỗi các vòng đợi sản phẩm nối tiếp nhau’ đồng thời chứng minh sự hiện hữu của khái niệm thương hiệu về mặt bản chất bằng sự hiện diện của cung đường tiếp tuyến nối kết các tiếp điểm tại cuối mỗi giai đoạn III của mỗi sản phẩm trước khi thoái trào. Đây là sự chứng minh bằng lý thuyết sự hiện hữu và bản chất của thương hiệu, chứng minh cho các định nghĩa mới về thương hiệu như: (a) thương hiệu là một chuỗi các sản phẩm, (b) thương hiệu là đỉnh cao của sản phẩm…
Không chỉ là mô hình lý thuyết, mô hình chuỗi là sự thật hiện hữu trong rất nhiều các thương hiệu nổi tiếng mà chúng ta đang tiếp xúc hàng ngày: James Bond, KFC, Phở 24, Tom & Jerry, kênh truyền hình AXN với các chuỗi CSI: NY, Miami… rồi đến các chuỗi American Idols, Vietnam Idols… tất cả đều chứng minh bản chất ‘chuỗi’ của thương hiệu./.
Hết
Theo chuyên gia thương hiệu Võ Văn Quan - AMICA sưu tầm